Cá tầm sống trong môi trường nước lạnh, sạch và ô xy hòa tan cao, tốt nhất trên 6 mg/lít. Nhiệt độ nước phù hợp cho sự tăng trưởng của cá tầm từ 18 - 27oC. Cá tầm có thể sống được khi nhiệt độ cao hơn, nhưng khả năng tăng trưởng kém, nếu nhiệt độ cao kéo dài có thể gây chết hoặc phát triển dịch bệnh.
Có thể nói nhiệt độ là yếu tố môi trường quan trọng mang tính quyết định đến bố trí thủy vực nuôi trồng. Cá tầm là đối tượng dễ nuôi, có thể nuôi theo các hình thức như nuôi ao nước chảy và trong lồng hồ chứa, nuôi công nghiệp (nước chảy tuần hoàn).
Xây dựng đàn cá bố mẹ
Ở những nước có cá tầm tự nhiên phân bố, công nghệ sản xuất cá giống thường dựa vào nguốn cá bố mẹ tự nhiên. Người ta đánh bắt cá bố mẹ trên đường di cư đi đẻ tiến hành thụ tinh và ương ấp trong điều kiện nhân tạo. Công việc này được tiến hành thường xuyên ở những nước có nguồn cá tầm tự nhiên như Nga, Mỹ, Iran, Trung Quốc, v.v...
Công nghệ sản xuất giống tuỳ thuộc vào trình độ và điều kiện của mỗi nước mà sử dụng với mức độ khác nhau. Đơn giản nhất là bắt cá trên đường cá đi đẻ, cho thụ tinh nhân tạo, sau đó tiến hành ương nuôi đến giai đoạn cá giống rồi thả ra tự nhiên. Tuy nhiên hiệu quả công việc này không cao vì rất khó bắt được cá bố mẹ đúng thời điểm thành thục để tiến hành thụ tinh nhân tạo. Do bị hạn chế bởi số lượng cá bố mẹ đánh bắt được và mức độ thành thục của chúng không đều nên lượng cá giống thu được thường không được nhiều và chất lượng con giống không ổn định. Công nghệ này thường chỉ dùng trong điều kiện thí nghiệm hoặc với mục đích khôi phục nguồn lợi. Hiện nay ở Trung Quốc vẫn còn sử dụng phương pháp này để khôi phục nguồn lợi loài cá tầm bản địa.
Trên cơ sở công nghệ trên người ta tiến đến bắt cá bố mẹ nuôi tạm một thời gian cho đến khi thành thục hẳn mới tiến hành cho đẻ. Nhờ kết hợp với biện pháp tiêm kích thích tố nên số lượng cá bố mẹ nhiều hơn, thời gian cho đẻ chủ động và kết quả ổn định hơn nhiều so với phương pháp trên.
Biện pháp này được áp dụng ở sông Volga thời kỳ nhà nước Liên xô. Hàng năm một lượng lớn cá bố mẹ cá tầm ngược dòng vào sông Volga đi đẻ. Số cá này bị giữ lại dưới chân đập thuỷ điện chắn ngang sông tạo nên một ngư trường lớn cá bố mẹ ở đây. Một số nhà máy sản xuất cá giống lớn được xây dựng tại chỗ. Những cá thể thành thục bắt được có thể cho đẻ ngay. Cá thể chưa thành thục thì tiêm kích thích tố rồi thả nuôi tạm, sau một thời gian ngắn sẽ cho đẻ. Công nghệ này cho phép giảm một lượng lớn kinh phí để nuôi cá bố mẹ đồng thời sản xuất ra một lượng cá giống lớn đủ để vừa thả ra tự nhiên vừa để nuôi làm cá thịt. Tuy nhiên ta không áp dụng được công nghệ này vì ta không thể có cá bố mẹ tự nhiên như vậy.
Ở một số nước nhập cá tầm về nuôi muốn chủ động nguồn cá giống đều phải dựa vào nguốn cá bố mẹ chọn ra từ đàn cá nuôi thương phẩm. Do cá tầm có tuổi thành thục muộn (4 – 6 năm hoặc hơn nữa) nên việc nuôi cá bố mẹ rất tốn kém và phải chờ đợi lâu cho đến khi cá thành thục nên một số nước ở châu Âu thường chọn giải phải pháp mua trứng cá đã thụ tinh hoặc mua cá giống từ các nước Nga, Iran hay Ukraina. Theo Michail Chebanov (2001) thì hàng năm Nga bán 6 triệu trứng cá tầm đã thụ tinh cho các nước Đức, Ba lan, Italy, Hungary, Tây ban Nha, Trung Quốc cho đến tận Ecuador. Ở Mỹ và Canada nguồn cá tầm bố mẹ trong tự nhiên hầu như cạn kiệt nên việc sản xuất giống đều phải dựa vào đàn cá nuôi.
Cần nói thêm rằng muốn cá bố mẹ sau khi qua đông thành thục tốt lại phụ thuộc vào kỹ thuật nuôi vỗ. Cá bố mẹ được chọn ra từ đàn cá nuôi thương phẩm phải được nuôi trong điều kiện nước chảy với thức ăn không quá nhiều chất béo. Cá nuôi trong điều kiện nước tĩnh, cho ăn nhiều chất béo làm cho tuyến sinh dục phủ đầy mỡ không chuyển hoá thành trứng và sẹ được. Theo kinh nghiệm của Nga để kích thích cá chóng thành thục cần cho cá hoạt động trong môi trường nước chảy và cho ăn thêm thức ăn tươi sống như cá tươi xay trộn với thức ăn viên. Theo Panomarov (2008) thì khẩu phần ăn cho cá bố mẹ chỉ cần dưới 2%, trong đó hàm lượng protein là 40 – 50 % nhưng hàm lượng mỡ không quá 15% tốt nhất là 10 – 12%.
Cá tầm hiện nay được cho ăn bằng thức ăn viên chuyên dùng cho cá hồi nhập từ Phần lan là không đạt yêu cầu vì các lý do sau đây:
Thức ăn dùng cho cá hồi có hàm lượng prôtêin cao so với nhu cầu của cá tầm nên giá thành cao lãng phí không cần thiết.
Thức ăn được sản xuất để nuôi cá hồi ở vùng nước lạnh đòi hỏi hàm lượng mỡ cao. Lượng mỡ này trở nên quá dư thừa đối với cá tầm nên hạn chế khả năng phát dục của cá tầm.
Thức ăn nhập khẩu với giá thành cao nhưng lại phải nhập nhiều cùng một lúc. Việc thức ăn có hàm lượng mỡ cao lại để lâu ngày trong điều kiện độ ẩm và nhiệt độ cao ở Việt nam nên chóng bị phân huỷ nên cá ăn vào dễ bị ngộ độc, sinh bệnh.
Vì thế cho nên cần nhanh chóng sản xuất thức ăn thích hợp tại Việt nam. Như vậy, vừa giảm được giá thành cá nuôi vừa đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của cá một cách tốt nhất.
Công nghệ qua đông nhân tạo
Cá bố mẹ đến tuổi thành thục đòi hỏi phải trải qua thời gian mùa đông nhất định thì buồng trứng mới chuyển sang giai đoạn IV và cho đẻ được. Ở một số nước châu Âu điều kiện mùa đông gần giống với nước Nga nên cá bố mẹ đến tuổi thành thục sau mùa đông có thể cho đẻ được và cá thành thục muộn như ở Nga.
Tuy nhiên trong điều kiện nhiệt đới ở nước ta không thể có mùa đông như tính di truyền của loài yêu cầu. Để có cá bố mẹ đủ tiêu chuẩn sinh sản nhân tạo (và cho trứng làm caviar) các nhà khoa học Nga đã thành công trong việc cho cá trú đông nhân tạo đối với cá nuôi ở miền Nam nước này. Biện pháp cụ thể là đem cá đã đủ tuổi thành thục vào nuôi trong bể nước tuần hoàn và hạ nhiệt độ đến nhiệt độ trú đông của loài trong thời gian 15 – 20 ngày. Sau đó nâng dần nhiệt độ nước lên nhiệt độ thích hợp cho cá đi đẻ và tiến hành tiêm kích thích tố và thụ tinh nhân tạo.
Vì vậy nếu chúng ta muốn cá tầm thành thục có trứng để sản xuất caviar cũng như sản xuất cá giống tất nhiên phải xây dựng một khu vực dành riêng để cho cá bố mẹ qua đông. Công việc này được thực hiện trong điều kiện nuôi nước tuần hoàn qui mô nhỏ. Hệ thống nuôi này không quá phức tạp vì thời gian cá qua đông không cần phải cho ăn nên yêu cầu bộ lọc sinh học không lớn. Vấn đề cần giải quyết là khu nuôi phải có thiết bị cách nhiệt tốt, thiết bị làm lạnh nước phải đạt hiệu quả cao đồng thời tiết kiệm năng lượng đến mức tối đa. Đây là khâu then chốt quyết định hiệu quả kinh tế của việc di nhập và nuôi cá tầm ở nước ta.
Kỹ thuật sinh sản nhân tạo
Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá tầm không khác lắm đối sinh sản cá chép. Điều quan trọng quyết định kết quả của kỹ thuật sinh sản nhân tạo là xác định đúng thời điểm tiêm kích thích tố và thời điểm rụng trứng để tiến hành thụ tinh nhân tạo. Kỹ thuật này đối với các kỹ thuật viên của ta đều có thể thực hiện một cách thành thạo (xem phần 4.2 và 4.3). Điểm mới trong kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá tầm là biện pháp rạch một đường nhỏ ở bụng để lấy trứng sau đó khâu lại mà vẫn đảm bảo cá còn sống và cho trứng vào năm sau.
Quá trình thao tác để lấy trứng và sẹ nên sử dụng thuốc gây mê để tránh tổn thương cá và thuận lợi trong thao tác. Đây là công việc mà cán bộ kỹ thuật của ta chưa quen nhưng khi tiếp xúc với cá bố mẹ cá tầm nặng hàng vài chục kg thì việc sử dụng thuốc gây mê là không thể tránh và đòi hỏi phải quen dần với kỹ thuật này. Việc gây mê cá có thể bơm dung dịch gây mê trực tiếp vào mang cá như vậy cá sẽ nhanh bị mê và rút ngắn thời gian thao tác.
Theo Trung Tâm Nghiên Cứu Cá Hồi - Cá Tầm Krông Bông - Đaklak, Công ty CP Yanghanh
Tin liên quan:
- TTKN: Nuôi cá rô phi thâm canh ứng dụng công nghệ Biofloc cho năng suất vượt trội (05-04-2021)
- Lạng Giang: Làm giàu từ nuôi cá truyền thống (01-04-2021)
- CÁ TRA THỜI ẢM ĐẠM (16-06-2020)