Tỉnh Bắc Giang có khoảng trên 500 làng có nghề, trong đó có 39 làng nghề đã được UBND tỉnh công nhận (14 làng nghề truyền thống và 25 làng nghề); có 52 sản phẩm chủ lực, đặc trưng, tiềm năng và hàng trăm sản phẩm đa dạng mang bản sắc địa phương có tiềm năng về quy mô và xu hướng phát triển thành sản phẩm hàng hóa đang được doanh nghiệp, HTX, người dân ưu tiên đầu tư. Nhiều sản phẩm đã xuất khẩu như: mỳ Chũ, vải thiều Lục Ngạn, Vải thiều nước đường, mây tre đan Tăng Tiến, đồ gỗ, các sản phẩm rau củ đóng hộp,...

Thực hiện Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Chương trình Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018-2020. Ngày 29/6/2018 UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành Quyết định số 975/QĐ-UBND Phê duyệt Đề án “Chương trình mỗi xã một sản phẩm” tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2030, với một sô nội dung, mục tiêu chính như: Xây dựng tổ chức bộ máy quản lý, điều hành Chương trình OCOP từ cấp tỉnh đến cấp xã; áp dụng đồng bộ các chính sách để thực hiện hiệu quả chương trình OCOP; Tiêu chuẩn hóa tối thiểu 50% số sản phẩm hiện có, tập trung vào các sản phẩm chủ lực, đặc trưng và tiềm năng của tỉnh. Phát triển ít nhất 3 sản phẩm OCOP đạt hạng 5 sao cấp quốc gia; Củng cố, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, kiện toàn các doanh nghiệp, HTX có sản phẩm tham gia chương trình OCOP; ưu tiên phát triển HTX, doanh nghiệp nhỏ và vừa để sản xuất các sản phẩm truyền thống, dịch vụ có lợi thế đạt tiêu chuẩn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường theo hướng liên kết giữa hộ sản xuất với hợp tác xã và doanh nghiệp; xây dựng 06 điểm trưng bày, giới thiệu và bán sản phẩm OCOP trên địa bàn các huyện, thành phố; Đào tạo tập huấn cho 100% cán bộ quản lý chương trình, lãnh đạo các doanh nghiệp, HTX, chủ hộ có đăng ký kinh doanh tham gia chương trình OCOP; Đẩy mạnh xúc tiến thương mại và quảng bá thương hiệu sản phẩm OCOP.

Để triển khai thực hiện các nội dung, mục tiêu đã đề ra. Trên cơ sở kế hoạch chung của tỉnh, các Sở, ngành các huyện, thành phố đã ban hành kế hoạch cụ thể của từng địa phương, thành lập Hội đồng đánh giá, phân hạng sản phẩm cấp huyện; UBND cấp xã bố trí cán bộ để tham mưu triển khai thực hiện Chương trình OCOP tại cơ sở.

Sau 03 năm triển khai thực hiện Chương trình OCOP, tỉnh Bắc Giang đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo ra sự lan tỏa trong phong trào thi đua sản xuất của các địa phương, chủ thể sản xuất đặc biệt ở khu vực nông nghiệp nông thôn. Đây chính là nguồn động lực mới trong xây dựng nông thôn mới, trong phát triển kinh tế nông thôn, được hệ thống chính trị các cấp và xã hội đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia, cụ thể:

- Chương trình đã tạo ra phong trào khởi nghiệp sâu rộng tại các địa phương, đã có nhiều HTX, doanh nghiệp được thành lập và tham gia, trong đó HTX tham gia chiếm tỷ lệ cao nhất (chiếm 87,7%, điều này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của Chương trình OCOP là Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh). Có nhiều thanh niên trẻ có trình độ, nhiệt huyết khởi nghiệp từ nông nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm thể hiện sự sáng tạo của người dân.

- Các hoạt động hỗ trợ địa phương, chủ thể sản xuất được tổ chức thực hiện chuyên nghiệp, có chiều sâu, bước đầu đã hình thành đội ngũ cán bộ triển khai chương trình các cấp năng động, nhiệt tình, được đào tạo bỗi dưỡng kiến thức đảm bảo năng lực hỗ trợ thúc đẩy các chủ thể thực hiện chương trình OCOP.

- Vận dụng và thực hiện lồng ghép các chính sách có liên quan của Trung ương và của tỉnh để thực hiện Chương trình như: Thông tư số 08/2019/TT-BTC ngày 30/01/2019 của Bộ Tài chính; Nghị quyết số 24/2018/NQ-HĐND ngày 06/12/2018 của HĐND tỉnh ban hành quy định một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã, liên hiệp HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; Quyết định số 08/2018/QĐ-UBND ngày 02/5/2018 của UBND tỉnh Quy định một số nội dung thực hiện Thông tư số 43/2017/TT-BTC ngày 12/5/2017 của Bộ Tài chính. Với tổng kinh phí huy động khoảng 16.900 triệu đồng, trong đó ngân sách nhà nước hỗ trợ khoảng 6.900 triệu đồng.

- Đến hết năm 2020 tỉnh Bắc Giang có 95 sản phẩm của 10 huyện, thành phố được đánh giá, phân hạng và UBND tỉnh quyết định công nhận đạt từ 3 sao trở lên, trong đó có 71 sản phẩm đạt 3 sao và 24 sản phẩm đạt 4 sao theo Bộ tiêu chí quốc gia. Trong số 95 sản phẩm OCOP của tỉnh có 50 sản phẩm thuộc nhóm sản phẩm chủ lực, đặc trưng và tiềm năng (24 sản phẩm thuộc nhóm chủ lực; 18 sản phẩm thuộc nhóm đặc trưng; 8 sản phẩm thuộc nhóm tiềm năng), còn lại là các sản phẩm khác của địa phương.

- Về hoạt động xúc tiến thương mại, trong 03 năm, tỉnh Bắc Giang đã hỗ trợ cho trên 50 lượt HTX, doanh nghiệp, chủ thể có sản phẩm tiêu biểu đặc trưng và sản phẩm OCOP tham gia các hội chợ triển lãm, xúc tiến thương mại tại các tỉnh: Quảng Ninh, Lào Cai, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Hòa Bình, Nha Trang,… Liên minh Hợp tác xã tỉnh tổ chức các hội nghị kết nối cung cầu, hỗ trợ các chủ thể tham gia hội chợ trong nước. Các huyện, thành phố đã tổ chức hội chợ, trưng bày sản phẩm gắn với các hoạt động, kỷ niệm các ngày lễ lớn nhằm quảng bá, tuyên truyền hình ảnh sản phẩm OCOP của địa phương mình. Một số địa phương phát triển hệ thống trung tâm, điểm giới thiệu, quảng bá sản phẩm OCOP như các huyện: Yên Thế, Lục Nam, Việt Yên, Hiệp Hòa, thành phố Bắc Giang,… Một số sản phẩm đã vào các siêu thị lớn như BigC, VinMart+, Aeon, …

- Thông qua việc tham gia vào chương trình OCOP, các sản phẩm tham gia đánh giá, phân hạng đã có bước tiến về chất lượng sản phẩm, đầu tư thiết kế bao bì, nhãn mác hiện đại, sang trọng. Đồng thời đảm bảo điều kiện theo quy định. Nhiều sản phẩm đã được sự quan tâm và ký kết hợp đồng tiêu thụ với các siêu thị, nhà phân phối lớn. Chương trình được triển khai cũng khuyến khích các doanh nghiệp, HTX, chủ thể đầu tư vào nông nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, giải quyết việc làm, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng thu nhập cho người dân nông thôn.

 

Mặc dù vậy có thể thấy trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình OCOP gặp một số khó khăn, hạn chế nhất định như:

- Nhận thức về Chương trình OCOP của một số địa phương, chủ thể sản xuất chưa rõ ràng, nhận thức về các vẫn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh còn đơn giản và hạn chế, có tư tưởng ngại khi hoàn thiện các thủ tục, điều kiện tham gia. Bộ máy quản lý và triển khai thực hiện ở cơ sở chủ yếu là kiêm nhiệm. Hiệu quả tư vấn, phát triển và hoàn thiện sản phẩm chưa cao. Mặc dù đã được tham gia một số hội nghị tập huấn về công tác triển khai và các hoạt động của chương trình.

- Các sản phẩm của địa phương vẫn chủ yếu là sơ chế, ít sản phẩm chế biến sâu. Việc hình thành chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm còn ít. Số lượng và chất lượng sản phẩm OCOP của một số địa phương chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế; chất lượng sản phẩm còn chưa cao, sản lượng tiêu thụ nhỏ chủ yếu thông qua tư thương mà ít có HĐ tiêu thụ, liên doanh liên kết. Sản phẩm đặc sản trên địa bàn tỉnh tuy nhiều, song vẫn chưa được nhiều khách hàng trong và ngoài nước biết tới.

- Công tác lãnh đạo chỉ đạo và tham gia của các địa phương không đồng đều, chưa có lộ trình đầu tư nâng cấp sản phẩm để nâng hạng sao, chưa có sản phẩm tham gia đánh giá 5 sao cấp quốc gia.

- Các nội dung chi quy định Điều 20b Thông tư số 08/2019/TT-BTC ngày 30/01/2019 của Bộ Tài chính sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2017/TT-BTC ngày 12/5/2017 của Bộ Tài chính quy định quản lý và sử dụng kinh phí sự nghiệp thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 còn hạn chế, chưa cụ thể và chưa bao quát các nội dung cần thiết để triển khai thực hiện Chương trình OCOP và để phát triển sản phẩm OCOP như: thiếu nội dung về tư vấn phát triển sản phẩm, đào tạo tập huấn, hỗ trợ bao bì,... dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn được giao. Chưa có chính sách khen thưởng các chủ thể OCOP nên chưa khuyến khích tạo động lực cho các đơn vị tham gia Chương trình.

- Bộ Tiêu chí đánh giá, phân hạng sản phẩm theo Quyết định số 1048/QĐ-TTg ngày 21/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ chưa bao quát hết các nhóm sản phẩm hiện có; việc quy định tỷ lệ sử dụng nguyên liệu địa phương theo Quyết định số 781/QĐ-TTg ngày 08/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ sẽ hạn chế việc liên kết giữa các vùng sản xuất và bao tiêu sản phẩm; Công tác kiểm tra giám sát chất lượng sản phẩm OCOP sau khi được công nhận còn hạn chế.

Một số bài học kinh nghiệm qua quá trình triển khai thực hiện chương trình giai đoạn 2018-2020:

- Tăng cường hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức, phương pháp, cách thức tiếp cận và triển khai Chương trình đến đội ngũ cán bộ các cấp, đến các doanh nghiệp, HTX, chủ thể sản xuất để tạo nên phong trào sâu rộng sản xuất, kinh doanh sản phẩm OCOP; đặc biệt là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu để thống nhất trong nhận thức và hành động.

- Các địa phương cần coi OCOP là một chương trình phát triển kinh tế quan trọng, chủ lực của cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới bền vững. Tập trung phát triển các sản phẩm đặc trưng, chủ lực, tiềm năng; các sản phẩm có lợi thế so sánh, có tiềm năng về quy mô và xu hướng phát triển mạnh, gắn với đơn vị làng, xã để phát huy nội lực, sức sáng tạo, hình thành các chuỗi giá trị sản phẩm.

- Tiếp tục thực hiện theo chu trình OCOP thường niên và phải được tổ chức quản lý khoa học, đồng bộ có hệ thống từ cấp tỉnh đến cơ sở. Cấp tỉnh hình thành bộ phận nghiệp vụ chuyên trách OCOP; cấp huyện cần có 1-2 cán bộ chuyên trách tham mưu giúp việc; cấp xã cần có 01 cán bộ chuyên môn. Các cán bộ cần được đào tạo để có trình độ năng lực, nhận thức, có tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ được giao.

- Vận dụng các chính sách một cách linh hoạt, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để khuyến khích các HTX, doanh nghiệp và các chủ thể đầu tư phát triển sản phẩm, xây dựng thương hiệu từ đó nâng cao giá trị gia tăng của từng sản phẩm, tập trung vào hỗ trợ một số nội dung như: Hoàn thiện quy trình sản xuất, nâng cấp nhà xưởng, hỗ trợ máy móc thiết bị sản xuất, thiết kế nhãn mác, bao bì sản phẩm, chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, bảo hộ nhãn hiệu, khen thưởng theo thứ hạng đạt sao,…

- Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, giới thiệu sản phẩm. Hình thành mạng lưới kết nối sản xuất, kinh doanh dịch vụ kết hợp với các hoạt động xây dựng, phát triển thương hiệu, phát triển mở rộng thị trường cho các sản phẩm phát triển bền vững.

Để khắc phục những khó khăn, hạn chế đã được chỉ ra và đồng thời  tiếp tục phát huy hơn nữa thành quả, hiệu ứng mà Chương trình mang lại trong giai đoạn tiếp theo Bắc Giang cần tập trung triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

- Thứ nhất, Tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho toàn xã hội hiểu được mục đích, ý nghĩa của chương trình OCOP, xem OCOP như một nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, là động lực mới trong xây dựng nông thôn mới. Từ đó thúc đẩy sản xuất, tạo điều kiện và động lực cho người sản xuất mạnh dạn đầu tư, phát triển các sản phẩm lợi thế của mỗi địa phương. Thực hiện xây dựng hoàn thiện bộ máy quản lý chương trình các cấp,  đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ và các chủ thể sản xuất tham gia Chương trình.

- Thứ haitiếp tục triển khai thực hiện các cơ chế chính sách của trung ương, của tỉnh; đồng thời nghiên cứu tham mưu ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển các sản phẩm OCOP phù hợp với điều kiện của tỉnh, địa phương.

- Thứ ba, Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tem truy xuất nguồn gốc. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm OCOP. Xây dựng các điểm giới thiệu và bán sản phẩm OCOP trên địa bàn các huyện, thành phố.

- Thứ tư, tập trung hướng dẫn thành lập mới, đồng thời củng cố, phát triển HTX, doanh nghiệp để sản xuất các sản phẩm có lợi thế, có khả năng cạnh tranh trên thị trường theo hướng liên kết giữa hộ sản xuất với hợp tác xã và doanh nghiệp.

- Thứ năm, thường xuyên kiểm tra tình hình triển khai thực hiện Chương trình. Quản lý, giám sát chặt chẽ và có chế tài hậu kiểm phù hợp. đối với với các sản phẩm đã được công nhận là sản phẩm OCOP.

- Thứ sáu, hỗ trợ phát triển sản phẩm du lịch cộng đồng coi đây là một hướng đi mới trong phát triển đa dạng sản phẩm OCOP nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng  du lịch về phát triển du lịch của tỉnh với 3 loại hình du lịch chính: Văn hóa tâm linh, lịch sử - văn hóa và sinh thái nghỉ dưỡng. Hiện Bắc Giang có hơn 700 di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh; trong đó có 103 di tích cấp quốc gia và 4 di tích quốc gia đặc biệt cùng không gian di sản văn hóa phi vật thể đa dạng bao hàm các hình thức văn hóa dân gian, truyền thống như: lễ hội, âm nhạc, dân ca, nghệ thuật, nghề thủ công truyền thống,…Đây là tiền đề và lợi thế lớn của tỉnh trong việc lựa chọn hỗ trợ, xây dựng sản phẩm du lịch cộng đồng tham gia đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP.