Bắt đầu năm 2015, bỗng nhiên báo chí Việt Nam phát hiện gạo Campuchia đang được thế giới ưa chuộng, đã qua mặt Việt Nam trong việc xuất khẩu gạo thơm cạnh tranh với Thái Lan. Và tiếp theo đó, gạo thơm của Myanmar cũng đang được nổi tiếng. Nhiều người lo lắng cho mệnh hệ gạo Việt Nam sẽ ra sao trong tình thế này.
 
Tại sao gạo Việt Nam không được khách hàng ưa chuộng như vậy? Thậm chí nhiều lô hàng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã bị trả về vì không đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Những lô hàng này không có tông tích vì không ai có thể truy nguyên nguồn gốc lấy từ ruộng lúa nào. Cuối cùng phải qui về nguồn gốc duy nhất là “Việt Nam Rice” do 90 triệu người làm ra. Tại Hội chợ Lương thực quốc tế tại Thái Lan những năm qua, gạo Việt Nam không dám xuất đầu lộ diện, mà chỉ có gạo Thái Lan, gạo Campuchia, và gạo Italy. Tại sao trước năm 1968, chúng ta có “Gạo Sài Gòn” nổi tiếng khắp thế giới, mà sau khi đất nước được hòa bình thống nhất thì gạo Việt Nam bị tụt hạng như thế? Gạo thơm ngon của Việt Nam đâu mất rồi? Các nhà khoa học Việt Nam ở đâu mà để cho tình trạng gạo Việt Nam xuống cấp như thế? Đây là những câu hỏi cứ được lặp đi lặp lại mãi từ các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước cho đến những tầng lớp thấp hơn trong xã hội.
Gạo Việt đã trải qua nhiều biến đổi từ thời kỳ phong kiến sang Pháp thuộc, đến thời kỳ chiến tranh khốc liệt, sang thời kỳ hòa bình thống nhất đất nước. Trong “Lời giới thiệu” cho quyển sách “Dấu xưa Nam bộ” (2006) của nhà báo Đào Hồng Hạnh, tôi đã viết: “Cây lúa mình biết tưởng chừng là rành rẽ vậy mà nông dân vẫn ạch đụi với nó. Sau 16 năm xuất khẩu gạo mình vẫn mang tiếng là xuất khẩu thứ gạo trung bình chỉ dành cho… “nhà nghèo” chứ không làm gạo tốt cho “nhà giàu” ăn được. Trong khi đó, Hồng Hạnh đã ghi lại nhiều cứ liệu minh chứng ngay từ xa xưa mình đã xuất khẩu gạo sang Thái Lan. “Vào năm 1789, khi nạn đói xảy ra ở Xiêm La, Nguyễn Ánh đã cho phép cư dân miền Tây bán 8.800 phương tức 264 ngàn lít gạo”. Tác giả đặt câu hỏi: Phải chăng đây là thương vụ xuất khẩu gạo đầu tiên của cư dân miền Tây? Riêng tôi thì ưu tư, tại sao xuất phát điểm từ xưa là vậy mà nay anh ta lại hơn mình, cũng phải tìm ra lý do chứ? Việc tìm ra lời đáp, theo tôi không chỉ là chuyện của anh hoạch định chính sách, của anh nông nghiệp mà cũng chính là công việc của các nhà nghiên cứu văn hóa, của chính các nhà khảo cứu ngày nay.”
 
Gạo Việt Nam hiện nay do giống lúa nào làm ra?
 
Gạo Việt Nam hiện nay dù đã và đang được xuất với khối lượng nhất nhì thế giới, nhưng chất lượng thua xa các nước khác vì hạt lúa của ta hiếm khi đi thẳng từ tay nông dân vừa gặt để đến nhà máy chế biến gạo thành sản phẩm có thương hiệu. Trái lại, hạt lúa ruộng này được trộn với hạt lúa khác giống của ruộng khác, và cứ như thế đến khi đầy xà lan chuyên chở của thương lái người Việt. Và chúng ta có hàng ngàn thương lái người Việt như thế được nuôi dưỡng bởi các công ty lương thực gốc nhà nước. Khối lúa trộn này được thương lái phơi/sấy khô bằng phương tiện kém chất lượng, đem xay bóc vỏ trấu để có gạo nguyên liệu đem giao cho các nhà máy lau bóng gạo của thương lái lớn hơn hoặc của công ty lương thực, chờ lệnh lau bóng và xuất xưởng khi công ty lương thực có đầu ra xuất khẩu hoặc phân phối ra miền Trung, miền Bắc. Và cứ như thế, hạt gạo Việt Nam được mọi nơi nhận, phần lớn là gạo không thương hiệu như chúng ta đã biết. Dĩ nhiên, mấy lúc sau này, một số công ty lương thực muốn xuất gạo thơm để nâng cao giá trị gạo Việt nên đã khuyến khích ngành nông nghiệp địa phương và thương lái nên hô hào nông dân trồng lúa Jasmine và Nàng Thơm Chợ Đào.
 
Lúa Nàng Thơm Chợ Đào là giống lúa thơm nhất của miền Tây, nhưng chỉ thơm trong vùng khoảng 500 ha của ấp Mỹ Lệ, Chợ Đào, Cần Đước, tỉnh Long An. Cùng giống đó, nếu đem ra khỏi Mỹ Lệ thì mùi thơm bớt dần đến không còn thơm nữa. Tuy nhiên hiện nay, gạo Nàng Thơm Chợ Đào có mặt gần như khắp nơi, thể hiện tình trạng gạo trộn quá phổ biến. Giống lúa thơm thứ hai, Jasmine 85, cũng như thế.
 
Lúa Jasmine 85 được lai tạo tại Viện IRRI Philippines bởi nhà khoa học Mỹ Hank Beachell, là sự phối hợp giữa giống cao sản IR262 với giống lúa thơm Khao Dawk Mali của Thái Lan. Dòng tốt nhất của cặp lai này là IR841-85. Ông Beachell đem giống về Mỹ trồng ở bang Texas, sau đó Vụ Khoa học Nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp Mỹ cùng với các Trạm Nghiên cứu của Bộ đặt tại ĐH Texas, ĐH Arkansas, và ĐH Louisiana, cùng Viện IRRI đồng đứng tên đăng ký vào năm 1989 cho ra đời giống này với tên thương hiệu là Jasmine 85. Trong số các giống nhập nội từ IRRI vào Chương trình lúa của các cơ quan nghiên cứu nước ta cũng có dòng IR841-85 và một số dòng phân ly khác. Một vài người Việt từ Mỹ về nước cũng mang theo Jasmine 85. Hiện nay giống Jasmine 85 được trồng phổ biến, như là giống có mùi thơm cơ bản giống như gạo Thái Lan, nhưng năng suất thấp và rất khó trồng, chi phí cao hơn đối với giống cao sản không thơm. Vì vậy, thương lái dùng giống Jasmine để trộn với nhiều giống cao sản khác có dạng gạo tương đương nhưng năng suất cao hơn và dễ trồng hơn.
 
Đấy là hai trường hợp gạo thơm của Việt Nam được đưa ra thị trường như thế, không ai dám bảo đảm ngồn gốc, nên cũng không thể nào đăng ký thương hiệu. Cuối cùng thì Nhà nước cũng thấy được vai trò quan trọng của thương hiệu gạo Việt Nam nên mới ban hành QĐ 706/TTg ngày 21/05/2015 vừa qua.
 
Xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam - trễ còn hơn không
 
Không phải gạo của nước ta không có thương hiệu, nhưng phải nói cho rõ là gạo của nước ta xuất đi với khối lượng lớn thì mới không có thương hiệu, chứ gạo đặc sản của một số doanh nghiệp tư nhân đã xuất đi với lượng nhỏ theo kiểu xuất ủy thác qua công ty lớn như Vinafood, hoặc xuất trực tiếp theo LC nhập khẩu của nước ngoài (thí dụ như gạo hữu cơ Hoa Sữa được Công ty BHMT ở London nhập từ Công ty Viễn Phú Việt Nam), hoặc bán trong siêu thị nội địa thì cũng có thương hiệu đàng hoàng (thí dụ gạo ST20 của Sóc Trăng thơm ngon và một số thương hiệu khác). Vì các qui định về điều kiện được phép xuất khẩu quá khắt khe nên phần lớn các công ty sản xuất gạo có thương hiệu không thể vươn ra biển cả nếu không được mua trực tiếp như gạo hữu cơ Hoa Sữa. Gạo Việt Nam, như đã trình bày trên đây, chủ yếu những giống lúa mùa (chỉ trồng được một vụ/năm) ngon cơm nhưng năng suất thấp, như Nàng Thơm Chợ Đào, Tàu Hương, Nanh Chồn, Huyết Rồng, Châu Hạng Võ..., được xuất khẩu từ những năm đầu thế kỷ 20, trong thời Pháp thuộc và được nổi tiếng là “Saigon Rice” đi khắp các nước Đông Nam Á, châu Âu và châu Phi từ cảng Sài Gòn. Nhưng đến 1968, chiến tranh khốc liệt ở miền Nam đã xóa tên Việt Nam trên bản đồ các quốc gia xuất khẩu gạo trên thế giới. Cho đến khi nông dân Việt Nam tiếp xúc được các giống lúa cao sản ngắn ngày (trồng nhiều vụ/năm, lúc nào cũng được), với nước tưới sẵn sàng mọi lúc thì giống lúa mùa ngon cơm nói trên dần dần mai một, không ai muốn trồng. Thêm vào đó, những chành lúa nổi tiếng chuyên buôn bán giống lúa mùa ngon cơm nổi tiếng đã chạy khỏi Việt Nam, các nhà máy chế biến gạo của họ bị quốc hữu hóa, và lực lượng thương lái rất hùng hậu ra đời với những công ty xuất khẩu gạo trong thời kỳ đổi mới đã triệt tiêu thương hiệu nổi tiếng của gạo Việt Nam. Thậm chí cả loại gạo nổi tiếng nhất còn lại là Nàng Thơm Chợ Đào cũng mất tiếng luôn vì gạo bị trộn lẫn với gạo Jasmine cùng một số gạo có hạt trắng trong tương tự như Nàng Thơm Chợ Đào.
 
Xây dựng lại thương hiệu gạo Việt Nam trong bối cảnh thị trường bát nháo hiện nay với quá nhiều giống lúa cho nông dân tự chọn và do hàng ngàn thương lái mua bán, quả thật là một thách thức lớn, càng khó hơn nữa nếu thực hiện theo lộ trình nêu trong QĐ 706/TTg. Từ tình trạng không cần gì thương hiệu, chuyển sang một thái cực với những mục tiêu mà QĐ706 muốn đạt cho thương hiệu gạo Việt Nam rất rườm rà, quá nhiều tham vọng, và mơ hồ. Thử hỏi một khách hàng ăn gạo Việt Nam, ngoài mong muốn chọn một loại gạo có chất lượng ngon hợp khẩu vị và an toàn vệ sinh, liệu họ có chọn thêm mấy đặc tính khác như gạo phải có “lịch sử, văn hóa, truyền thống Việt Nam” hay không? QĐ706 sẽ cho xây dựng nhiều cấp thương hiệu: thương hiệu gạo quốc gia, thương hiệu vùng, địa phương, và các doanh nghiệp cũng sẽ xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp. Tuy đề ra rất nhiều nội dung khiến khâu thực hiện phải huy động rất nhiều bộ ngành, chương trình sẽ tập trung ưu tiên cho ba giống đặc sản của ĐBSCL: giống Jasmine, giống lúa thơm và giống nếp đặc sản.
 
Nếu theo lộ trình này, chúng ta sẽ không thể đạt mục tiêu dễ dàng, vì làm thế nào xác định giống quốc gia để từ đó sử dụng làm ba giống đặc sản mà dự án nêu? Trong thực tế giống Jasmine được dùng làm một giống gạo thơm, mà trong số giống gạo thơm hiện nay, ngay trong giống Jasmine, đã có nhiều dòng do nhiều cơ quan tuyển chọn. Và giống nào là giống gạo thơm được chọn, giống nếp đặc sản nào sẽ được dùng? Mỗi giống đó sẽ được trồng thế nào và ai sẽ đăng ký thương hiệu đưa ra thị trường?
 
Chúng tôi tin rằng dự án có thể thực hiện thành công đúng theo mục tiêu thời gian nhưng với ít mục tiêu về tính chất của thương hiệu nếu chúng ta chọn một lộ trình thực tế nhất và ngắn nhất bao gồm năm khâu sau đây, áp dụng cho ba loại giống là giống lúa thơm, giống lúa cao sản, và giống nếp:
 
Hai là tổ chức huấn luyện một số doanh nghiệp có thật tâm thương mại gạo Việt Nam có thương hiệu, rồi chọn doanh nghiệp có khả năng cao nhất về quản lý thương hiệu, cơ sở vật chất có nhà máy chế biến gạo được trang bị hiện đại, và có tổ chức vùng nguyên liệu;
 
Ba là cho mỗi doanh nghiệp được chọn đứng ra cùng địa phương tổ chức lại nông dân trong vùng thích hợp để làm vùng nguyên liệu lớn. Tất cả nông dân tham gia sẽ được đào tạo theo qui trình GAP sản xuất lúa nguyên liệu an toàn vệ sinh thực phẩm; có thể theo phương pháp hữu cơ, phương pháp đặc biệt (như gạo mầm dành cho người bị tiểu đường);
 
Bốn là doanh nghiệp lo đăng ký thương hiệu mỗi loại gạo của mình;
 
Năm là xúc tiến thương mại các loại gạo có thương hiệu ra khắp thị trường nội địa và quốc tế qua các siêu thị, quảng cáo trên báo đài, tham dự các hội chợ quốc tế.
 
Nếu thực hiện theo lộ trình đơn giản hóa trên đây, chắc chắn Việt Nam sẽ có gạo có thương hiệu để xuất từ năm 2020.
 
http://tiasang.com.vn/