Nhờ mạnh dạn chuyển đổi cây trồng nên nhiều hộ nông dân ở Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang mỗi năm thu hàng trăm triệu đồng nhờ trồng cam góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho người dân huyện Lục Ngạn.
 
     Cam là giống năng suất cao, thích nghi rộng, loại cây sinh trưởng mạnh, phân cành nhiều, quả có giá trị dinh dưỡng, kinh tế cao nên hiện nay được trồng rất nhiều trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên trong quá trình chăm sóc đặc biệt là chế độ phân bón ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng phát triển, khả năng chống chịu sâu bệnh và quyết định năng suất chất lượng của cây. Do vậy người nông dân cần tìm hiểu kỹ quy trình kỹ thuật chăm sóc cây theo từng đợt nhằm giúp cho cây phát triển tốt và cho quả sai.
 
     Hiện nay, cam được trồng nhiều ở Bắc Giang. Theo quy hoạch đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020 huyện Lục Ngạn sẽ chia các thành các vùng trồng cam gồm: Vùng trồng và thâm canh cam đường Canh có 12 xã, diện tích 900-950ha. Vùng trồng cam Vinh có 13 xã, diện tích 600-650ha. Với diện tích quy hoạch trồng cam lớn như vậy  người nông dân cần phải nắm bắt được kỹ thuật chăm sóc và các biện pháp phòng trừ sâu bệnh đúng cách cho cây cam.
 
 Quy trình chăm sóc và phòng trừ bệnh cho cây cam:
 
1.      Chăm sóc:
 
   Làm cỏ, xới xáo và vệ sinh vườn: Thường xuyên làm cỏ xung quanh hình chiếu tán cây kết hợp với việc tủ gốc và tưới đủ ẩm cho cây.
 
 Cắt tỉa hằng năm: Thời kỳ cây có quả, sau mỗi lần thu hoạch đều phải đốn tỉa những cành tăm, cành khô, cành vượt, cành sâu bệnh. Công việc đốn tỉa phải được tiến hành thường xuyên nhằm tạo cho cây có sức bật mầm mới, thoáng, không bị sâu bệnh.
 
 2. Phân bón:
 
   -  Năm thứ 1: Sử dụng phân có hàm lượng lân cao để phát triển bộ rễ như 5 - 10 - 5, 5 - 8 - 6…+ 80g N/cây kết hợp Vino Roots pha 40 - 50 ml/bình 16 lít giúp kích thích ra rễ con mạnh.
 
   -  Năm thứ 2 đến thứ 4: Cam đã cho một mức sản lượng nên bón phân NPK 10 - 10 - 5, 15 - 15 - 6…+ Vino roots liều lượng chai 1 lít pha 500 lít nước cho tưới vào gốc 4 - 5 lít nước/cây. Giúp rễ khỏe, cành sung mãn, giải độc hữu cơ giúp cây sinh trưởng phát triển mạnh, tăng tỷ lệ ra hoa, đậu trái.
 
   Từ năm thứ 4 trở đi: Cây chính thức bước vào thời kỳ khai thác, quả đi vào ổn định dùng. Phân bón có hàm lượng Kali cao ví dụ 4: 1: 6 và phân chuồng hoai mục ngâm 10 - 15 ngày. Trước khi tưới pha loãng 5 lần sau đó hòa chung Tricho Humic + Vino roots liều lượng 25g + 50 ml/bình 16 lít hoặc 1 gói Tricho Humic + chai Vino Roots 1 lít/pha phuy 500 lít nước. Cứ 20 - 25 ngày một lần tưới (4 - 5 lần/vụ), bã ngâm vớt lên rải đều quanh tán lấp đất nhẹ. Thời kỳ này kết hợpVino79 cho phun lên cây và trái với liều lượng 30 - 40 ml/bình 16 lít hoặc pha chai 500ml/phuy 400 lít nước làm cho lớn trái, bóng trái, cam mọng nước, và tăng độ ngọt cho trái.
 
   Quản lý dịch hại: Thực hiện quy trình phòng trừ tổng hợp được tiến hành theo 4 bước sau:
 
+ Quản lý và chăm sóc vườn cây khỏe mạnh.
 
+ Thường xuyên kiểm tra sâu bệnh hại trên cây, phát hiện và phòng trừ kịp thời các ổ dịch tránh sự lây lan.
 
+ Tiến hành tổng hợp các biện pháp phòng trừ. Sử dụng bộ thuốc trừ sâu bệnh hại có chọn lọc.
 
+ Tiến hành phun thuốc phòng trừ vào những thời điểm thích hợp.
 
.  
3. Một số sâu bệnh hại chính và biện pháp phòng trừ
 
 Sâu vẽ bùa (Phyllcnistis citrella): trên lá, tạo thành các lớp ngoằn ngoèo có phủ sáp trắng, lá xoăn lại cuối đường cong vẽ trên mặt lá có sâu non bằng đầu kim. Phun thuốc phòng 1 - 2 lần khi cây có các đợt lộc non (lúc lộc non dài 1 - 2 cm). Dùng thuốc Polytrin 440 EC 25 ml/10 lít nước hoặc Selecron 500EC 25 ml/10 lít nước để phòng trừ. Phun ướt hết mặt lá.
 
   Nhện
 
- Nhện đỏ (Panonychus citri): Phát sinh quanh năm hại lá là chính, chủ yếu vào vụ đông xuân. Nhện đỏ hút dịch lá làm cho lá bị héo đi. Trên lá nơi nhện tụ tập thường nhìn trên mặt lá thấy những vòng tròn lá bị bạc hơn so với chỗ lá không có nhện và hơi phồng lên nhăn nheo.
 
- Nhện trắng (Phyllocotura oleivora): Phát sinh chủ yếu trong thời kỳ khô hạn kéo dài vài tháng. Nhện trắng là nguyên nhân chủ yếu gây ra rám quả, các vết màu xám trắng ở trên vỏ quả. Nhện trắng làm lá non và búp non chùn lại. Dùng thuốc Comite 73EC 10 ml/10 lít nước; Ortus 5SC, Dầu khoáng SK, Newsodan 5.3EC pha theo nồng độ khuyến cáo của nhà sản xuất, phun ướt cả 2 mặt lá và phun lúc cây ra lộc non để phòng. Nếu đã bị nhện phá hại nặng thì phải phun liên tục 2 - 3 lần, mỗi lần cách nhau 5 - 7 ngày.
 
   Rệp hại
 
- Thường có 3 loại rệp: Rệp dính, rệp sáp, rệp vẩy. Gây hại chủ yếu trên lá non, cành non, lá bị xoăn rộp lên, rệp tiết nước nhờn khiến lá bị muội đen.
 
- Dùng Sherpa 25EC hoặc Trebon 10EC, Suparathion 40EC pha với nồng độ theo khuyến cáo của nhà sản xuất, phun 1 - 2 lần ở thời kỳ lá non. Khi xuất hiện rệp sáp, muốn trị có hiệu quả cần pha thêm vào thuốc 1 lít xà phòng để có tác dụng phá lớp sáp phủ trên người rệp làm cho thuốc dễ thấm.
 
   Bệnh loét (Xanthomonas campetris): Bệnh gây hại nặng tất cả các thời kỳ trồng cây cam đường Canh nếu không phòng ngừa tốt. Năm nào, mưa nhiều thời tiết nóng ẩm bệnh phát triển mạnh thành dịch. Trị bệnh bằng cách phun Boocdo 1% (15g sunphat đồng + 20g vôi tôi/20 lít nước) hoặc Kocide 53.8DF.
 
   Bệnh sẹo (Elsinoe fawcetti): Lá và quả có những nốt nổi ghồ ghề màu nâu, thường gây hại lá và quả lúc còn nhỏ. Phòng trừ: Cắt bỏ và tiêu hủy các bộ phận cây bị nhiễm bệnh. Phun định kỳ các loại thuốc trừ nấm theo các đợt lá, chồi non như Kocide53.8 DF, Kasuran 0,2%, Mancozeb 0,2%.
 
   Bệnh chảy gôm (Phytophthora sp): Bệnh chảy gôm (Phytophthora sp) Bệnh thường phát sinh ở phần gốc cây, cách mặt đất khoảng 20 - 30 cm trở xuống cổ rễ và phần rễ. Giai đoạn đầu bệnh mới phát sinh thường vỏ cây bị nứt và nhảy nhựa (chảy nhôm). Bóc lớp vỏ ra, ở phần gỗ bị hại có màu xám và nhìn thấy những mạch sợi đen hoặc nâu chạy dọc theo thớ gỗ. Đối với vết hại cục bộ ở phần thân gốc: Cạo sạch vết bệnh, dùng thuốc Aliette 800 WP nồng độ 0,5% quét vào vết bệnh. Đối với những cây có biểu hiện triệu chứng nhẹ cần phun Aliette 800WP nồng độ 0,3% lên toàn bộ cây./.
 
  
 
                                                                                 Hồng Quân (Tổng hợp)