PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH CHO NHÃN
 
1. Sâu hại
 
* Sâu đục gân lá (Acrocercops hierocosma Meyr)
 
Hình thái và cách gây hại: Thành trùng màu xám nâu, kích thước sải cánh khoảng 4 mm, cánh trước dài và hẹp, trên cánh có những vân màu trắng bạc, cánh sau hình dùi có nhiều lông tơ mịn dài, ấu trùng dài khoảng 5mm có màu xanh nhạt. Sâu chui ra khỏi gân lá để hoá nhộng, nhộng dài khoảng 5 mm được che phủ bên ngoài bằng một màng mỏng đính trên mặt lá nhãn. Bướm thường đẻ trứng trên các cành, lá nhãn non. Sâu nở ra ăn phá bằng cách đục vào gân chính của lá, làm đứt mạch nhựa của lá, lá không phát triển được hoặc bị méo mó. Triệu chứng lá bị cháy khô đầu trông rất giống lá bị bệnh. Khi các đợt lộc bị gây hại nặng ảnh hưởng đến sự phát triển bộ lá, làm giảm khả năng ra hoa hoặc trái bị rụng.
 
Phòng trị: Tỉa cành để các đợt ra lộc tập trung dễ kiểm soát.
 
Phun thuốc trong giai đoạn cây ra đọt non bằng các loại thuốc như: Sherpa, Applaud hoặc các loại thuốc gốc cúc tổng hợp khác.
 
* Sâu đục Quả (Conogethes punctiferalis (Guenée))
 
Hình thái và cách gây hại: Thành trùng là một loại bướm có chiều dài sãi cánh 20 – 23mm, toàn thân màu vàng, trên cánh có nhiều chấm nhỏ màu đen. Trứng có hình elip dài khoảng 2- 2,5mm, trứng lúc mới đẻ có màu trắng sữa, khi sắp nở có màu vàng nhạt, ấu trùng mới nở có màu trắng sữa, đầu màu nâu, về sau chuyển thành màu trắng hơi ửng hồng, trên lưng mỗi đốt cơ thể có 4 chấm màu nâu nhạt, trên các đốm có mang 1 sợi lông cứng nhỏ. ấu trùng trải qua 5 tuổi, ấu trùng phát triển đầy đủ dài 17 – 20 mm.   
 
 Nhộng dài khoảng 12 - 13 mm nằm trong một cái kén bằng tơ, ban đầu có màu nâu nhạt khi sắp vũ hóa có màu nâu đậm và có thể thấy rõ các chấm đen trên cánh.
 
Thành trùng hoạt động vào ban đêm, ban ngày chúng nấp ở nơi tối hoặc mặt dưới lá cây ký chủ. Cả thành trùng đực và cái đều ăn mật hoa. Trưởng thành cái đẻ trứng trên quả, đặc biệt là nơi tiếp giáp giữa các quả. Sâu có thể gây hại từ khi còn nhỏ đến sắp thu hoạch, nặng nhất là khi quả bắt đầu có cùi. Quả non bị sâu đục thường biến dạng, khô và rụng, trái lớn nếu bị hại sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất.
 
- Phòng trị:
 
Vệ sinh vườn bằng cách thu gom những trái bị nhiễm đem tiêu hủy.
 
Cắt tỉa cành sau khi thu hoạch cho vườn thông thoáng.
 
Dùng bẫy đèn với ánh sáng đen (Black light) để bẩy trưởng thành. Có thể sử dụng bao quả để giảm thiệt hại.
 
Phun thuốc nếu có 1% số quả trong vườn bị tấn công, có thể dùng các loại thuốc như Sherpa,   Karate, Polytrin, … liều lượng như khuyến cáo. Chú ý thời gian cách ly của mỗi loại thuốc để bảo đảm an toàn cho nguời sử dụng.
 
* Bọ xít (Tessaratoma papillosa (Drury))
 
Thành trùng có màu nâu nhạt, cơ thể to, chiều dài thân khoảng 25-30 mm có dạng hình 5 cạnh, cánh trước có dạng cánh nửa cứng. Trứng dạng hình cầu, kích thước khoảng 2mm, màu nâu nhạt, được đẻ thành từng ổ xếp cạnh nhau trên mặt lá. ấu trùng cũng có dạng như thành trùng tuy nhiên cánh chưa phát triển hoàn chỉnh, kích thước nhỏ hơn và có màu vàng nâu, khả năng di chuyển kém linh hoạt hơn thành trùng.
 
Bọ xít gây hại chủ yếu vào giai đoạn cây ra ngọn non, rụng hoa, rụng quả, chết các cành, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và sinh trưởng của cây.
 
- Phòng trị:
 
Tỉa cành để các đợt hoa và ngọn non ra tập trung.
 
Dùng vợt bắt trưởng thành vào sáng sớm.
 
Trong tự nhiên có các loài thiên địch như kiến vàng, ong ký sinh có thể tấn công trứng bọ xít, do vậy nên tạo điều kiện thuận lợi cho thiên địch tự nhiên phát triển nhằm hạn chế bớt sự gây hại của bọ xít. Phun thuốc khi thấy mật số bọ xít cao, phun Basudin 0,2% hoặc Diazinnon 0,04%; Dipterex 0,015-0,1%, Trebon 0,15-0,2% (Phun 2 đợt liền nhau cách nhau một tuần vào khoảng cuối tháng 4).
 
*  Rệp sáp (Pseudococus sp.) (Aleurodicus dispersus) (Nipaecoccus sp.)
 
            Rệp sáp gồm rất nhiều loài gây hại trên nhãn. Khả năng sinh sản của rệp sáp rất cao, con cái có thể đẻ trứng hoặc đẻ trực tiếp ra con.
 
Rệp sáp có thể gây hại trên các bộ phận của cây như cành, lá, hoa, quả. Cả ấu trùng và trưởng thành đều chích hút nhựa cây, trong quá trình gây hại chúng thải ra mật thu hút nấm bồ hóng đến phát triển, sự phát triển của nấm bồ hóng trên tán lá làm giảm khả năng quang hợp của cây, giảm giá trị thương phẩm.
 
- Phòng trị:     
 
Phun nước vào tán cây để rửa trôi rệp.
 
 Nên tỉa bỏ quả bị nhiễm ở giai đoạn đầu để tránh gia tăng mât độ rệp sáp.
 
Tìm diệt các loại kiến có hại để hạn chế sự lây lan.
 
Hạn chế trồng xen với những cây dễ nhiễm rệp sáp như đu đủ, ...
 
Phun thuốc khi thấy mật số cao bằng các loại thuốc như: Sherpa; Trebon hoặc Actara phun đều lên tán chủ yếu vào các chùm hoa, quả. ...Khi phun có thể kết hợp các loại chất bám dính để tăng hiệu quả của thuốc.
 
* Sâu tiện thân nhãn:
 
Phải dùng dao nhọn khoét lỗ sâu có thể dùng gai mây hoặc sợi dây thép ngoáy vào trong lỗ kéo sâu ra hoặc bơm Politrin hay Sumicidin (0,2%) vào trong lỗ sâu, dùng nước vôi đặc quét lên thân cây không cho sâu trưởng thành đẻ trứng.
 
2. Bệnh hại
 
* Bệnh sương mai (do nấm Phytophthora sp.)
 
Triệu chứng: Bệnh này thường xuất hiện và gây hại nặng trên hoa, quả đặc biệt là trong điều kiện có sương mù, mưa phùn, nơi có ẩm độ cao thì bệnh phát triển và lây lan rất nhanh chóng. Do nấm Phytophthora thường lưu tồn trong đất nên các chùm quả gần mặt đất thường dễ bị nhiễm bệnh hơn.
 
Quả bị bệnh thường bị thối nâu, lan dần từ vùng cuống quả trở xuống, làm quả nứt ra, thịt trái bị thối nhũn, chảy nước có mùi hôi chua và có thể thấy tơ nấm trắng phát triển trên vết bệnh.
 
Cắt bỏ và thu gom các quả bị bệnh rơi rụng trong vườn đem tiêu hủy. Phun các loại thuốc như Alpine, Mexyl, Ridomil Gold, Aliette, hoặc các loại thuốc có gốc đồng theo liều lượng khuyến cáo.
 
* Bệnh phấn trắng (do nấm Oidium sp.)
 
Triệu chứng: Hoa bị xoắn vặn, khô cháy, quả non bị nhiễm bệnh sẽ nhỏ, có màu nâu. Vỏ quả bị đóng phấn trắng nhất là ở vùng gần cuống. Quả lớn hơn nếu nhiễm bệnh thường bị thối nâu từ cuống quả sau đó chuyển sang màu nâu đen và lan dần đến nguyên quả.
 
Phòng trị: Vườn thoáng, ánh sáng xuyên qua được tán lá sẽ hạn chế sự phát triển của bệnh. Phun các loại thuốc hóa học như: Bendazol 50WP, Topsin M, Nustar, ... nồng độ theo khuyến cáo. Để phòng bệnh có thể phun thuốc vào giai đoạn trước khi trổ hoa và ngay khi hoa vừa đậu quả non.
 
*  Bệnh đốm bồ hóng (do nấm Meliola sp.)
 
Triệu chứng: Bệnh gây hại chủ yếu ở mặt dưới lá. Đốm bệnh hình hơi tròn với viền không đều, kích thước 1-3mm, đen (màu càng sậm khi đốm bệnh càng to ). Bề mặt đốm bệnh hơi sần sùi do nấm bồ hóng phát triển trên đó. Mặt dưới lá có thể có nhiều đốm. Cạo lớp bồ hóng đi bên dưới thấy mô lá bị thâm đen. Nấm bò hóng thường phát triển nhiều trên các vườn trồng quá dầy, tàn lá che rợp nhau và ẩm độ khộng khí cao.
 
- Phòng trị: Không nên trồng dầy, tỉa bớt cành vô hiệu khi tạo tán sau thu hoạch giúp cây thoáng. Có thể sử dụng các loại thuốc gốc đồng để phòng trị bệnh như: Carbenzim 500FL, Thio-M 500SC, COC-85, Copper zinc, ... phun theo liều lượng khuyến cáo.
 
*  Bệnh khô cháy hoa (do nấm Phyllostica sp. hoặc Pestalotia sp.)
 
Triệu chứng: Bệnh khô cháy hoa thường xuất hiện vào lúc hoa nhãn đang nở rộ, trên cánh hoa có những vết chấm nhỏ bằng đầu kim, có màu nâu đen làm hoa bị vàng, sau đó khô và rụng đi. Nấm thường tấn công vào lúc có nhiều sương mù hay mưa nhiều, ẩm độ cao.
 
- Phòng trị: Nên trồng thưa giúp cây thoáng, cho ánh sáng xuyên qua tán cây làm giảm độ ẩm sẽ hạn chế được bệnh. Phòng trị bằng các loại thuốc như: Bendazol 50WP, Score, Carbenzim 500FL hoặc thuốc gốc đồng theo khuyến cáo vào giai đoạn trước khi hoa nở để phòng bệnh.
 
Quản lý sâu bệnh gây hại trên cây nhãn bằng áp dụng các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp IPM để phòng trừ là rất quan trọng như: luân canh cây trồng, sử dụng giống sạch bệnh, thường xuyên vệ sinh sạch sẽ đồng ruộng, sử dụng các biện pháp thủ công và sinh học để diệt trừ sâu bệnh.
 
Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi đối tượng gây hại đến ngưỡng kinh tế, thuốc nằm trong danh mục cho phép, độ độc thấp, ưu tiên sử dụng dòng thuốc có nguồn gốc thảo mộc, sinh học, thời gian cách ly ngắn. Sử dụng thuốc đảm bảo theo nguyên tắc “4 đúng”.
 
Ghi chép và lưu hồ sơ: ghi rõ ngày tháng, năm mua, tên thuốc, đơn vị sản xuất, số lượng, đơn giá, tên người bán, sử dụng cho đối tượng dịch hại nào, liều lượng và phương pháp sử dụng.
 
Vỏ, bao bì thuốc BVTV sau khi sử dụng phải thu gom đúng nơi quy định.
 
Hồng Quân
 
(Tổng hợp theo tài liệu của Trạm Khuyến nông huyện Tân Yên)