Trong những năm gần đây, ngành thủy sản ở Bắc Giang đã có bước phát triển mạnh. Diện tích nuôi thủy sản thâm canh, thâm canh cao, theo hướng VietGAP, an toàn sinh học tiếp tục được mở rộng; nhiều mô hình ứng dụng kỹ thuật mới cho hiệu quả cao. diện tích nuôi thuỷ sản ước đạt 12.500 ha, trong đó diện tích nuôi chuyên canh đạt 5.800 ha, tăng 400 ha so với năm 2015; diện tích nuôi thâm canh cao đạt 1.600 ha, tăng 350 ha so với năm 2015. Sản lượng thuỷ sản đạt 47.500 tấn, trong đó sản lượng thủy sản nuôi là 44.500 tấn, sản lượng thủy sản khai thác là 3.000 tấn. Trong những năm qua, do làm tốt công tác chỉ đạo, tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn, trình độ thâm canh, áp dụng KHKT của các hộ dân ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, trong chăn nuôi thủy sản, nông dân vẫn còn gặp những khó khăn trong công tác phòng trừ dịch bệnh. Sau đây xin lưu ý một số vấn đề trong phòng bệnh thủy sản mùa nắng nóng:
Trong nuôi trồng thủy sản, vấn đề phòng bệnh được đặt lên hàng đầu và nguyên tắc là “phòng bệnh là chính, chữa bệnh khi cần thiết”. Để tăng sức đề kháng và giảm nguy cơ phát sinh bệnh cho thủy sản nuôi, nhất là trong mùa hè nắng nóng hay xuất hiện những cơn mưa bất chợt, người nuôi thủy sản cần thực hiện tốt các biện pháp cụ thể trong kỹ thuật nuôi.
Ao nuôi: Chọn địa điểm nuôi thích hợp, có nguồn nước không bị ô nhiễm bởi các nguồn nước thải sinh hoạt và các nhà máy công nghiệp, các yếu tố môi trường thuận lợi. Ao nuôi phải được cải tạo triệt để trước mỗi vụ nuôi, lớp bùn đáy không nên để quá dày. Giữ chất lượng nước ao tốt và giảm làm cá bị sốc do môi trường như: hàm lượng oxy thấp, nhiệt độ nước quá cao hoặc quá thấp, sự tích tụ các chất thải, độ mặn, pH thay đổi...
Giống: người nuôi cần phải mua con giống tốt, khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng và được kiểm dịch bởi các cơ quan chức năng. Thả giống với mật độ hợp lý, tuân thủ lịch thời vụ do các cơ quan chuyên môn hướng dẫn hàng năm. Cần loại bỏ những con giống yếu, giống bị bệnh ra khỏi ao nuôi.
Quản lý thức ăn: Nên sử dụng các loại thức ăn đảm bảo chất lượng và phù hợp với từng đối tượng nuôi; không nên sử dụng các loại thức ăn đã ươn thối, ẩm mốc hoặc đã hết hạn sử dụng. Cho ăn đúng liều lượng và đảm bảo đủ chất dinh dưỡng. Xác định chính xác khẩu phần thức ăn và cho ăn nhiều bữa trong ngày là biện pháp cần thiết để giảm chất thải hữu cơ trong ao nuôi thông qua giảm lượng thức ăn dư thừa và thức ăn bị phân giải ngoài môi trường nước ao. Thường xuyên kiểm tra, vớt bỏ thức ăn thừa trong ao nuôi và khử trùng dụng cụ, địa điểm cho ăn. Thường xuyên bổ sung thêm các loại vitamin, khoáng chất, men tiêu hóa để nâng cao sức đề kháng cho tôm, cá.
Quản lý các yếu tố môi trường nuôi:
- Độ sâu: Luôn luôn đảm bảo mực nước ao nuôi trên 1 m, đặc biệt trong mùa nắng nóng mực nước càng sâu, môi trường sống càng ổn định.
- Màu nước: Luôn duy trì màu nước có màu xanh lá cây pha nâu, nâu vàng hoặc xanh lá chuối non.
- Độ trong: Độ trong của nước nuôi thủy sản chủ yếu phụ thuộc vào mật độ của sinh vật phù du có trong ao. Khi độ trong quá thấp, thường do tảo phù du phát triển quá dày, làm các chỉ số pH biến động lớn gây sốc cho thủy sản nuôi trong ao. Ngược lại, khi độ trong cao, hàm lượng oxy thường thấp và tảo đáy có nguy cơ bùng phát mạnh, cạnh tranh không gian hoạt động và oxy về ban đêm, gây sốc cho cá. Độ trong nước ao nuôi nên duy trì từ 40 - 60 cm trong vòng 2 tháng đầu. Đến tháng thứ 3 trở đi, duy trì độ trong từ 35 - 45 cm.
- pH: duy trì pH nước trong khoảng 7,5 - 8,5. Nếu pH thấp hơn hoặc cao hơn, thay nước và bón vôi sống (CaCO3), vôi dolomite (CaMg(CO3)2) với tỷ lệ 150 - 300 kg/ha. Ngay sau khi trời mưa to, cần bón vôi xuống ao, rắc vôi dọc theo bờ ao.
- Độ kiềm: sau khi điều chỉnh pH, cần duy trì độ kiềm 80 - 120 mg/l. Để duy trì độ kiềm, dùng các biện pháp sau:
+ Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh trong các ao nuôi thâm canh, chu kỳ nuôi dài để giảm hàm lượng nitơ dư thừa trong nước ao.
+ Ổn định pH nước ao trong giới hạn 7,5 - 8,5 (nước mặn) để kìm hãm sự chuyển đổi giữa các dạng khác nhau của nitơ.
+ Khi cần thiết và điều kiện cho phép, cần thay nhanh nước ao bằng nguồn nước mới để giảm khẩn cấp hàm lượng NH3 trong ao nuôi.
Nông Tuyên Huấn
Theo http://khuyennongbacgiang.com/
Trong những năm gần đây, ngành thủy sản ở Bắc Giang đã có bước phát triển mạnh. Diện tích nuôi thủy sản thâm canh, thâm canh cao, theo hướng VietGAP, an toàn sinh học tiếp tục được mở rộng; nhiều mô hình ứng dụng kỹ thuật mới cho hiệu quả cao. diện tích nuôi thuỷ sản ước đạt 12.500 ha, trong đó diện tích nuôi chuyên canh đạt 5.800 ha, tăng 400 ha so với năm 2015; diện tích nuôi thâm canh cao đạt 1.600 ha, tăng 350 ha so với năm 2015. Sản lượng thuỷ sản đạt 47.500 tấn, trong đó sản lượng thủy sản nuôi là 44.500 tấn, sản lượng thủy sản khai thác là 3.000 tấn. Trong những năm qua, do làm tốt công tác chỉ đạo, tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn, trình độ thâm canh, áp dụng KHKT của các hộ dân ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, trong chăn nuôi thủy sản, nông dân vẫn còn gặp những khó khăn trong công tác phòng trừ dịch bệnh. Sau đây xin lưu ý một số vấn đề trong phòng bệnh thủy sản mùa nắng nóng:
Trong nuôi trồng thủy sản, vấn đề phòng bệnh được đặt lên hàng đầu và nguyên tắc là “phòng bệnh là chính, chữa bệnh khi cần thiết”. Để tăng sức đề kháng và giảm nguy cơ phát sinh bệnh cho thủy sản nuôi, nhất là trong mùa hè nắng nóng hay xuất hiện những cơn mưa bất chợt, người nuôi thủy sản cần thực hiện tốt các biện pháp cụ thể trong kỹ thuật nuôi.
Ao nuôi: Chọn địa điểm nuôi thích hợp, có nguồn nước không bị ô nhiễm bởi các nguồn nước thải sinh hoạt và các nhà máy công nghiệp, các yếu tố môi trường thuận lợi. Ao nuôi phải được cải tạo triệt để trước mỗi vụ nuôi, lớp bùn đáy không nên để quá dày. Giữ chất lượng nước ao tốt và giảm làm cá bị sốc do môi trường như: hàm lượng oxy thấp, nhiệt độ nước quá cao hoặc quá thấp, sự tích tụ các chất thải, độ mặn, pH thay đổi...
Giống: người nuôi cần phải mua con giống tốt, khỏe mạnh, có nguồn gốc rõ ràng và được kiểm dịch bởi các cơ quan chức năng. Thả giống với mật độ hợp lý, tuân thủ lịch thời vụ do các cơ quan chuyên môn hướng dẫn hàng năm. Cần loại bỏ những con giống yếu, giống bị bệnh ra khỏi ao nuôi.
Quản lý thức ăn: Nên sử dụng các loại thức ăn đảm bảo chất lượng và phù hợp với từng đối tượng nuôi; không nên sử dụng các loại thức ăn đã ươn thối, ẩm mốc hoặc đã hết hạn sử dụng. Cho ăn đúng liều lượng và đảm bảo đủ chất dinh dưỡng. Xác định chính xác khẩu phần thức ăn và cho ăn nhiều bữa trong ngày là biện pháp cần thiết để giảm chất thải hữu cơ trong ao nuôi thông qua giảm lượng thức ăn dư thừa và thức ăn bị phân giải ngoài môi trường nước ao. Thường xuyên kiểm tra, vớt bỏ thức ăn thừa trong ao nuôi và khử trùng dụng cụ, địa điểm cho ăn. Thường xuyên bổ sung thêm các loại vitamin, khoáng chất, men tiêu hóa để nâng cao sức đề kháng cho tôm, cá.
Quản lý các yếu tố môi trường nuôi:
- Độ sâu: Luôn luôn đảm bảo mực nước ao nuôi trên 1 m, đặc biệt trong mùa nắng nóng mực nước càng sâu, môi trường sống càng ổn định.
- Màu nước: Luôn duy trì màu nước có màu xanh lá cây pha nâu, nâu vàng hoặc xanh lá chuối non.
- Độ trong: Độ trong của nước nuôi thủy sản chủ yếu phụ thuộc vào mật độ của sinh vật phù du có trong ao. Khi độ trong quá thấp, thường do tảo phù du phát triển quá dày, làm các chỉ số pH biến động lớn gây sốc cho thủy sản nuôi trong ao. Ngược lại, khi độ trong cao, hàm lượng oxy thường thấp và tảo đáy có nguy cơ bùng phát mạnh, cạnh tranh không gian hoạt động và oxy về ban đêm, gây sốc cho cá. Độ trong nước ao nuôi nên duy trì từ 40 - 60 cm trong vòng 2 tháng đầu. Đến tháng thứ 3 trở đi, duy trì độ trong từ 35 - 45 cm.
- pH: duy trì pH nước trong khoảng 7,5 - 8,5. Nếu pH thấp hơn hoặc cao hơn, thay nước và bón vôi sống (CaCO3), vôi dolomite (CaMg(CO3)2) với tỷ lệ 150 - 300 kg/ha. Ngay sau khi trời mưa to, cần bón vôi xuống ao, rắc vôi dọc theo bờ ao.
- Độ kiềm: sau khi điều chỉnh pH, cần duy trì độ kiềm 80 - 120 mg/l. Để duy trì độ kiềm, dùng các biện pháp sau:
+ Định kỳ dùng chế phẩm vi sinh trong các ao nuôi thâm canh, chu kỳ nuôi dài để giảm hàm lượng nitơ dư thừa trong nước ao.
+ Ổn định pH nước ao trong giới hạn 7,5 - 8,5 (nước mặn) để kìm hãm sự chuyển đổi giữa các dạng khác nhau của nitơ.
+ Khi cần thiết và điều kiện cho phép, cần thay nhanh nước ao bằng nguồn nước mới để giảm khẩn cấp hàm lượng NH3 trong ao nuôi.
Nông Tuyên Huấn